Phải đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật, kiến tạo cho phát triển Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách, pháp luật hoạt động không vì mục đích lợi nhuận

Bộ trưởng Bộ Tư pháp vừa ký Quyết định số 1612/QĐ-BTP ban hành Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội, Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ.

Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng

Chương trình hành động của Bộ Tư pháp nhằm xác định rõ các nội dung và nhiệm vụ chủ yếu nhằm cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp được xác định trong các nghị quyết nêu trên, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện, tình hình thực tiễn của Bộ, ngành Tư pháp trong kỷ nguyên mới.

Chương trình xác định 7 nhiệm vụ trọng tâm. Cụ thể, nhiệm vụ thứ nhất là bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật.

Trong đó, xây dựng, ban hành và chỉ đạo thực hiện Chương trình hành động của Bộ Tư pháp bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của các cấp uỷ Đảng đối với việc thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật và tăng cường kiểm tra, giám sát công tác này.

Xác định xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, thường xuyên của Bộ.

Thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật, nhất là trong công tác thẩm định, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật…

Đổi Mới Tư Duy, Định Hướng Xây Dựng Pháp Luật
Bộ Tư pháp tổ chức hội thảo khoa học các giải pháp triển khai Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025.

Nhiệm vụ thứ hai là đổi mới tư duy, định hướng xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển.

Trong đó, bảo đảm công tác xây dựng pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp phải thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng; xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước; đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh; dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”; phát huy dân chủ, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa mức độ hạn chế quyền với lợi ích chính đáng đạt được.

Coi trọng, chủ động nghiên cứu chiến lược, chính sách từ sớm, từ thực tiễn, từ kinh nghiệm của thế giới đến kinh nghiệm của Việt Nam, góp phần tăng cường tính dự báo và nâng cao chất lượng công tác xây dựng chính sách, pháp luật trong phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp.

Thực hiện nghiêm quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; từng bước thực hiện soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tập trung, chuyên nghiệp. Chủ động đẩy mạnh truyền thông chính sách, nhất là các chính sách có tác động lớn đến xã hội, người dân, doanh nghiệp…

Tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật

Nhiệm vụ thứ ba là tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực và hiệu quả; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật.

Trong đó, phát huy cao độ tinh thần phục vụ Nhân dân, tư duy kiến tạo phát triển, hành động vì lợi ích chung của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong Bộ, ngành Tư pháp; thực hiện nhất quán quan điểm người dân và doanh nghiệp được làm những gì luật không cấm.

Trong phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp, tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội; thực hiện thường xuyên việc kiểm tra, rà soát, hợp nhất, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật…

Nhiệm vụ thứ tư là nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế, pháp luật quốc tế. Trong đó, nâng cao năng lực của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp để bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, định hình trật tự pháp lý quốc tế; tham gia tích cực vào việc xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế trên cơ sở tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Tiếp tục xử lý tốt các vấn đề pháp lý quốc tế phát sinh, nhất là tranh chấp đầu tư quốc tế nhằm kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước Việt Nam…

Nhiệm vụ thứ năm là xây dựng giải pháp đột phá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Trong đó, thực hiện cơ chế, chính sách đặc biệt về tài chính với định mức vượt trội và khoán chi theo nhiệm vụ, hoạt động; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với người tham gia công tác xây dựng pháp luật và một số nhiệm vụ, hoạt động tổ chức thi hành pháp luật hỗ trợ trực tiếp cho xây dựng pháp luật gắn với chức năng, nhiệm vụ, hoạt động, vị trí việc làm.

Thực hiện chế độ, chính sách thu hút, trọng dụng, kéo dài thời gian công tác không giữ chức vụ đối với cán bộ, công chức thuộc Bộ Tư pháp có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc về xây dựng pháp luật…

Tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo

Nhiệm vụ thứ 6 là tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Trong đó, ưu tiên nguồn lực xây dựng, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu lớn, ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp, bảo đảm “đúng, đủ, sạch, sống”, liên thông, dễ khai thác, dễ sử dụng, an toàn thông tin và bí mật nhà nước.

Triển khai ngay Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật và Đề án ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác xây dựng, kiểm tra và rà soát văn bản quy phạm pháp luật; quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật…

Nhiệm vụ thứ bảy là thực hiện cơ chế tài chính đặc biệt cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Trong đó, thực hiện phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách dành cho công tác xây dựng pháp luật trên nguyên tắc kịp thời, đúng, đủ và gắn với khoán chi theo kết quả, sản phẩm của từng nhiệm vụ, hoạt động.

Bố trí ngân sách phù hợp, tương xứng cho công tác tổ chức thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp. Ưu tiên nguồn lực tương xứng cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho đối tượng đặc thù, yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số…

Để lại một bình luận