Bài 1: Cách mạng trưởng thành từ trong gian khó

Hà Nội thông báo treo cờ Tổ quốc dịp kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám và Lễ Quốc khánh Tinh thần Cách mạng Tháng tám mãi trường tồn Đẩy mạnh tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Mọi cuộc cách mạng đều xuất phát từ một bối cảnh lịch sử cụ thể, với những mâu thuẫn tích tụ, những đòi hỏi cấp bách về chính trị, xã hội, kinh tế và đặc biệt là lòng dân. Nói cách khác, cách mạng không tự nhiên mà nổ ra. Nó là hệ quả của một quá trình lâu dài, khi nỗi đau khổ, áp bức, bất công tích tụ đến giới hạn, và người dân, lực lượng cách mạng đã có đủ nhận thức, lực lượng và thời cơ để vùng lên.

Cách mạng Tháng Tám 1945 không phải là sự kiện bất chợt, mà là kết quả của 80 năm đấu tranh chống thực dân, 15 năm chuẩn bị của Đảng, và cơ hội lớn khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Pháp mất quyền kiểm soát, tạo nên thời cơ ngàn năm có một.

Trước năm 1945, đất nước ta phải chịu đựng sự đô hộ của thực dân Pháp hơn 80 năm. Cái gọi là “chính sách khai hóa văn minh” của Pháp thực chất chỉ là lớp vỏ mỹ miều che đậy một bộ máy bóc lột tài nguyên, áp bức văn hóa và chia rẽ dân tộc. Đặc biệt trong thời kỳ 1939 – 1945, khi chiến tranh thế giới thứ hai lan rộng, thực dân Pháp càng tăng cường vắt kiệt thuộc địa để phục vụ chiến tranh tại chính quốc.

Tháng 9/1940, quân đội Nhật tiến vào Đông Dương. Việt Nam bị đẩy vào tình trạng một cổ hai tròng – dưới sự kìm kẹp đồng thời của Pháp và Nhật. Cái gọi là “Pháp bảo hộ” nay trở thành kẻ bù nhìn cho quân phiệt Nhật. Nhân dân vừa bị Pháp bóc lột bằng sưu cao thuế nặng, vừa bị Nhật cưỡng bức lao động, bắt lính, cướp thóc lúa và thực phẩm để phục vụ chiến tranh Thái Bình Dương.

Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân Được Thành Lập Tại Khu Rừng Trần Hưng Đạo Ở Châu Nguyên Bình, Tỉnh Cao Bằng, Do Đồng Chí Võ Nguyên Giáp Chỉ Huy, Trực Tiếp Tham Gia Chiến Đấu Bên Cạnh Các Cơ Sở, Lực Lượng Dân Quân Ở Các Địa Phương, Đóng Vai Trò Nòng Cốt, Quyết Định Sự Thành Công Của Cách Mạng Tháng Tám.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo ở châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, trực tiếp tham gia chiến đấu bên cạnh các cơ sở, lực lượng dân quân ở các địa phương, đóng vai trò nòng cốt, quyết định sự thành công của Cách mạng Tháng Tám. (Ảnh tư liệu)

Từ năm 1944 đến đầu 1945, nạn đói khủng khiếp đã xảy ra, cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu người dân ở miền Bắc. Xác chết nằm đầy ven đường, người sống vật vờ như bóng ma. Đó không chỉ là hậu quả của thiên tai, mà là hệ lụy trực tiếp từ sự cướp bóc vô nhân đạo của phát xít Nhật, sự bất lực của chính quyền bù nhìn và sự thờ ơ tuyệt đối của giới thống trị đối với nỗi đau của Nhân dân.

Cùng với đó, chiến tranh và ách đô hộ khiến nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, nông dân không có đất canh tác phải thuê mướn hoặc đi làm phu. Công nghiệp hầu như không phát triển, mọi nguồn lực đều bị hút máu bởi chính quyền thực dân.

Giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng bị bỏ mặc. Mù chữ chiếm hơn 90% dân số. Đa số người dân không được chăm sóc y tế, chết vì đói, vì bệnh tật và vì nghèo đói. Hệ thống hành chính, công quyền bị tha hóa, biến chất. Tầng lớp trí thức yêu nước bị trù dập, đày ải hoặc mua chuộc, khiến không khí xã hội ngày càng nghẹt thở.

Cùng lúc đó, thế giới bước vào giai đoạn “phân rã đế quốc” khi chiến tranh thế giới thứ hai dần đi đến hồi kết. Sự thất bại của phát xít ở châu Âu và châu Á khiến quyền lực của Nhật và Pháp trên lãnh thổ Việt Nam ngày một mong manh.

Sau cuộc đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, Nhật dựng nên chính quyền “Đế quốc Việt Nam” do Trần Trọng Kim đứng đầu. Đây thực chất là một chính quyền bù nhìn, không có thực lực, không có căn cứ quần chúng, không kiểm soát nổi tình hình.

Trong khi đó, bộ máy của thực dân Pháp cũ bị tan rã, các lực lượng trung thành với Pháp tê liệt. Cả nước lâm vào trạng thái “chính quyền rỗng” – không ai đủ sức quản lý, điều hành. Đó là một khoảng trống chính trị – và chính trong khoảng trống ấy, một lực lượng mới trỗi dậy.

Từ năm 1941, khi Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tổ chức tại Pác Bó (Cao Bằng), tư tưởng độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời, tập hợp mọi tầng lớp yêu nước.

Việt Minh không chỉ là một tổ chức chính trị mà còn là biểu tượng cho khát vọng độc lập. Các đội du kích được thành lập, căn cứ cách mạng dần mở rộng từ Cao – Bắc – Lạng đến đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và miền Nam.

Trong nạn đói năm 1945, Việt Minh là lực lượng duy nhất kêu gọi và tổ chức “phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo” – điều đó khiến uy tín của tổ chức tăng vọt. Lòng dân hướng về cách mạng như hướng về một cứu cánh thực sự.

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc nhanh chóng ở châu Á với việc Nhật đầu hàng Đồng minh ngày 15/8/1945. Tin tức như luồng điện chấn động cả nước. Quân Nhật rã rời, không kiểm soát được tình hình; chính quyền Trần Trọng Kim không có thực quyền. Người dân khao khát thay đổi, các địa phương nổi dậy giành chính quyền từng phần.

Ngày 13/8/1945, Đảng triệu tập cuộc họp toàn quốc, thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Ngày 19/8/1945, Hà Nội nổi dậy và giành chính quyền về tay Nhân dân. Chỉ trong vòng hơn 10 ngày, từ 19/8 đến 30/8, chính quyền cách mạng đã được thiết lập trên cả nước.

Cách mạng Tháng Tám không phải là một sự kiện “may mắn” đến tình cờ. Đó là kết quả tất yếu của một bối cảnh lịch sử đặc biệt – nơi mà: Ách đô hộ chồng chất đã khiến dân tộc chạm đáy khổ đau; hệ thống chính quyền cũ rệu rã, mất niềm tin tuyệt đối. Và một lực lượng cách mạng đủ bản lĩnh, tổ chức, uy tín đã trưởng thành từ trong gian khó.

Bối cảnh trước Cách mạng Tháng Tám là bi kịch của dân tộc, nhưng cũng là tiền đề cho một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử hiện đại Việt Nam.

Bảo Thoa – Bùi Phương

Để lại một bình luận