Còn khoảng cách giữa đào tạo với nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực

Giám sát góp phần hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật Giám sát của Quốc hội phải đi sâu để kiến tạo chính sách

Tại Diễn đàn giám sát của Quốc hội với chủ đề “Giám sát của Quốc hội để kiến tạo phát triển”, vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đã nhận được nhiều ý kiến tham luận, thảo luận.

Nhiều ý kiến cho rằng, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm phát triển nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.

Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng Nguyễn Thị Việt Nga cho biết, nhân lực chất lượng cao chỉ chiếm khoảng 12% tổng lực lượng lao động, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Thái Lan (khoảng 20%) hay Malaysia (trên 30%).

Đồng thời chất lượng chưa đồng đều, kỹ năng ngoại ngữ, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế và tư duy đổi mới sáng tạo còn là điểm yếu. Tỷ lệ lao động có kỹ năng số cơ bản chỉ khoảng 40%, và kỹ năng số nâng cao còn thấp hơn nhiều.

Còn Khoảng Cách Giữa Đào Tạo Với Nhu Cầu Thực Tế Về Nguồn Nhân Lực
Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng Nguyễn Thị Việt Nga. Ảnh: Quốc hội

“Nhiều sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc thực tế, trong khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân lực đạt yêu cầu. Hiện tượng “thừa thầy, thiếu thợ” vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Tình trạng chảy máu chất xám diễn ra khi nhiều sinh viên giỏi và chuyên gia lựa chọn làm việc ở nước ngoài do môi trường nghiên cứu và chính sách đãi ngộ trong nước còn hạn chế. Những hạn chế này nếu không được khắc phục sẽ trở thành điểm nghẽn cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”, đại biểu phân tích.

Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng cho rằng, hiện nay chúng ta chưa có định nghĩa pháp lý chính thức về nhân lực chất lượng cao. Cách hiểu phổ biến về nhân lực chất lượng cao là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và khả năng thích ứng cao, thường tập trung vào nhóm có trình độ cao (đại học trở lên) hoặc lao động tay nghề cao trong các lĩnh vực mũi nhọn.

Với cách hiểu này, khi nói đến “nhân lực chất lượng cao” là hầu như đều tập trung vào khu vực nguồn nhân lực được đào tạo ở trình độ cao. Từ cách hiểu này dẫn đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều thách thức, cả trong các quy định pháp lý đến thực tiễn.

Thực tế, theo bà Nga, nhân lực chất lượng cao không chỉ được đánh giá ở trình độ đào tạo mà còn được đánh giá ở kỹ năng nghề nghiệp. Nhân lực chất lượng cao là bộ phận nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và phẩm chất đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; có khả năng thích ứng, sáng tạo và đóng góp vào nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia.

“Trong những năm qua, chúng ta đã rất chú trọng đến phát triển giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cả trong giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học hiện nay vẫn đang tồn tại một khoảng cách khá lớn giữa việc đào tạo với nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực của các doanh nghiệp, của thị trường lao động.

Chúng ta coi trọng đào tạo chính quy mà chưa thực sự thấy được hết tầm quan trọng của các hình thức học tập phi chính quy, đào tạo tại doanh nghiệp và kinh nghiệm nghề nghiệp của mỗi cá nhân tự tích lũy”, bà Nga nói.

Còn Khoảng Cách Giữa Đào Tạo Với Nhu Cầu Thực Tế Về Nguồn Nhân Lực
Cần quan tâm thỏa đáng đến nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp. Ảnh: Hoàng Phúc

Bởi vậy, những kinh nghiệm nghề nghiệp được cá nhân tích lũy trong quá trình lao động đều chưa được công nhận, trong khi những kinh nghiệm này nhiều khi còn hiệu quả hơn cả các chương trình đào tạo nghề ngắn hạn.

Điều đó dẫn đến việc các lao động lành nghề, có năng lực thực tế, tay nghề cao mà chưa qua đào tạo vẫn không được công nhận tay nghề để có thể tiếp tục học liên thông lên bậc cao hơn. Nếu muốn có chứng chỉ, bằng cấp, họ lại phải học lại từ đầu, trong khi họ đã rất thành thạo các kỹ năng nghề được đào tạo từ đầu. Đây là sự lãng phí lớn.

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng quy trình công nhận năng lực từ các loại hình học tập đa dạng (trong đó có tự học và các hình thức đào tạo phi chính quy khác), trong đó khung trình độ quốc gia là căn cứ để xếp loại, công nhận trình độ của người học.

Luật Giáo dục Nghề nghiệp 2014 có quy định các hình thức học tập đa dạng: chính quy, phi chính quy và không chính quy với ba trình độ trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp (sơ cấp, trong cấp, cao đẳng) và hai hình thức đào tạo là chính quy và thường xuyên.

Luật quy đinh công nhận kiến thức, kỹ năng tích lũy từ kinh nghiệm làm việc để miễn học lại (người đứng đầu cơ sở đào tạo, dựa trên chương trình đào tạo để ra quyết định miễn môn học). Lý thuyết là thế, nhưng trên thực tế lại rất khó khăn để triển khai, bởi chưa có một khung quy đổi tri thức có sẵn của người học thành văn bằng, chứng chỉ được công nhận.

Việt Nam có “Tiêu chuẩn Kỹ năng nghề quốc gia” (theo Luật Việc làm 2013; Thông tư 56/2015/TYT – BLĐTBXH). Lẽ ra “Tiêu chuẩn Kỹ năng nghề quốc gia” là nền tảng chuẩn hóa năng lực lao động, cũng là nền tảng để hình thành “Khung trình độ quốc gia” thì đến 2016 chúng ta lại có thêm “Khung trình độ quốc gia” do Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng.

Hai khung tham chiếu này tồn tại song song, dường như “không liên quan” đến nhau. Trong đó “Tiêu chuẩn kỹ năng nghề” được sử dụng để đánh giá với các cơ sở đào tạo nghề, còn “Khung trình độ quốc gia” để đánh giá các cơ sở đào tạo học thuật, bằng cấp.

“Phải tích hợp “Tiêu chuẩn kỹ năng nghề” và “Khung trình độ quốc gia” thành một chuẩn năng lực thống nhất, có như thế mới giúp người học dễ dàng thực hiện học liên thông, và có thể đánh giá chính xác kỹ năng, trình độ của người học ở hình thức học tập phi chính quy”, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga nói.

Bên cạnh đó, nữ đại biểu cho rằng, cần quan tâm thỏa đáng đến nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để cung cấp/bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cần quan tâm lao động trong doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay cần gì?

Từ đó hoạch định các chính sách hỗ trợ cũng như các chiến lược ngắn hạn, dài hạn về nhân lực chất lượng cao để doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạnh mẽ hơn. “Không thể có những doanh nghiệp phát triển, thành công nếu như các doanh nghiệp đó thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao”, theo đại biểu.

Để lại một bình luận