Đây là ý kiến của PGS.TS Nguyễn Hồng Thái, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế – Vận tải Đường sắt Việt Nam, Trưởng khoa Vận tải – Kinh tế, Trường Đại học Giao thông vận tải (GTVT), tại Hội thảo quốc tế công nghệ hiện đại trong thiết kế, xây dựng, vận hành và khai thác đường sắt tốc độ cao chiều 20/8.

PGS.TS. Nguyễn Văn Hùng – Hiệu trưởng Trường ĐHGTVT cho biết, hội thảo quy tụ 24 báo cáo khoa học với 200 đại biểu, trong đó có nhiều chuyên gia đến từ các quốc gia có công nghiệp đường sắt phát triển như Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc. 

Theo PGS.TS Nguyễn Văn Hùng các tham luận là kết quả của một quá trình nghiên cứu của các nhà khoa học Trường ĐH GTVT và các đối tác trong Mạng lưới Trung tâm đào tạo xuất sắc về công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực công nghệ giao thông và hạ tầng thông minh do nhà trường dẫn dắt. 

W-IMG_2706.JPG.jpg
PGS.TS. Nguyễn Văn Hùng – Hiệu trưởng Trường ĐHGTVT. Ảnh: N. Huyền 

PGS.TS Nguyễn Hồng Thái cho biết dự án Đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) Bắc – Nam được xác định là công trình hạ tầng chiến lược, có ý nghĩa kinh tế – xã hội đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam.

Với tổng mức đầu tư khổng lồ, yêu cầu kỹ thuật phức tạp và thách thức về quản trị, việc huy động nguồn lực tư nhân là tất yếu nhằm giảm gánh nặng ngân sách, nâng cao hiệu quả quản lý và tạo động lực cho sự phát triển.

PGS Thái nhấn mạnh, kinh nghiệm từ các quốc gia có hệ thống đường sắt tốc độ cao phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đức và Pháp mang lại nhiều gợi ý giá trị cho Việt Nam.

Cụ thể tại Nhật Bản, tiên phong với tuyến đường sắt Shinkansen (1964), đất nước này đã thành công nhờ quản lý tập trung, phân tách vận hành – hạ tầng và gắn kết với phát triển đô thị định hướng giao thông (TOD). Chính phủ định hướng chiến lược nhưng hoạt động khai thác tuân theo cơ chế thị trường, tận dụng nguồn thu bổ sung từ dịch vụ thương mại và bất động sản quanh ga.

Còn tại Hàn Quốc, chính phủ nước này cũng áp dụng mô hình PPP hiệu quả với dự án SRT (Super Rapid Train). Nhà nước hỗ trợ giải phóng mặt bằng, đầu tư một phần vốn; doanh nghiệp tư nhân tham gia vận hành, thu phí và chia sẻ rủi ro theo hợp đồng minh bạch.

Tương tự tại Trung Quốc, chủ đạo vốn đầu tư công, nhờ đó nhanh chóng hình thành mạng lưới lớn nhất thế giới (47.000 km năm 2024).

W-Ảnh chụp Màn hình 2025 08 20 lúc 20.29.24.png
PGS.TS Nguyễn Hồng Thái chia sẻ tại hội thảo. Ảnh: N. Huyền 

“Tuy nhiên, Trung Quốc cũng khuyến khích tư nhân tham gia sản xuất phương tiện, thực hiện EPC hoặc khai thác các tuyến địa phương. Mô hình này cho thấy vai trò dẫn dắt mạnh mẽ của Nhà nước ở giai đoạn đầu, sau đó mở rộng sự tham gia của thị trường”, PGS. TS Hồng Thái bày tỏ.

Ở các nước Châu Âu như Đức cũng chú trọng thẩm định tác động xã hội – môi trường trước khi phê duyệt, công khai minh bạch tài chính. Chính phủ cấp phép cho nhiều nhà khai thác tư nhân cạnh tranh, tạo động lực nâng cao chất lượng dịch vụ.

Còn ở Pháp thì nhà nước tập trung đầu tư hạ tầng, trong khi tư nhân tham gia EPC, BT và vận hành. Từ 2021, Pháp mở cửa cạnh tranh trong khai thác, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong sản xuất, bảo trì phương tiện và dịch vụ đô thị tại ga.

Từ kinh nghiệm quốc tế liên hệ với Việt Nam, PGS. TS Hồng Thái Học cho rằng Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ các nước. 

Như kinh nghiệm Nhật Bản về an toàn, độ tin cậy và phát triển TOD quanh các ga để tạo thêm nguồn thu. Vận dụng kinh nghiệm Hàn Quốc về mô hình PPP với cơ chế chia sẻ rủi ro rõ ràng, thu hút mạnh mẽ tư nhân.

Áp dụng linh hoạt cách tiếp cận của Trung Quốc: Nhà nước đầu tư chủ lực giai đoạn đầu, sau đó mở rộng hợp tác với tư nhân. Tiếp thu từ Đức và Pháp cách kết hợp giữa đầu tư công – vận hành tư, cùng cơ chế cạnh tranh minh bạch để cải thiện dịch vụ.

Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam cần vừa là “nhà kiến tạo thể chế”, vừa là “nhà bảo đảm rủi ro”, tạo môi trường ổn định, hấp dẫn cho khu vực tư nhân.

“Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nếu Chính phủ giữ vai trò dẫn dắt, quy hoạch rõ ràng, hoàn thiện khung pháp lý và đảm bảo cơ chế chia sẻ rủi ro hợp lý, thì Việt Nam hoàn toàn có thể thu hút thành công khu vực tư nhân tham gia. Đây không chỉ là bài toán huy động vốn, mà còn là cơ hội để phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao năng lực quản lý, và hiện thực hóa mục tiêu hiện đại hóa hạ tầng, phát triển kinh tế – xã hội bền vững”, PGS. TS Hồng Thái tin tưởng.  

Pháp đặc biệt quan tâm các dự án metro, đường sắt tốc độ cao của Việt Nam
Pháp đặc biệt quan tâm các dự án metro, đường sắt tốc độ cao của Việt Nam
Đại sứ Pháp cho biết, Pháp theo dõi sát sao cuộc gọi thầu cho các tuyến metro sắp tới tại Hà Nội, TPHCM, đồng thời đặc biệt quan tâm đến các dự án phát triển đường sắt tại Việt Nam trong đó có tuyến đường sắt tốc độ cao.
Khởi công giải phóng mặt bằng dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam vào dịp 19/8
Khởi công giải phóng mặt bằng dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam vào dịp 19/8
Thủ tướng yêu cầu ra quân đồng loạt giải phóng mặt bằng tuyến đường sắt tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam dịp 19/8 để hoàn thành chậm nhất vào cuối năm 2026.
Phó Thủ tướng: Không dưới 5 doanh nghiệp tư nhân đề xuất làm đường sắt tốc độ cao
Phó Thủ tướng: Không dưới 5 doanh nghiệp tư nhân đề xuất làm đường sắt tốc độ cao
Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Hòa Bình cho biết có không dưới 5 doanh nghiệp đề nghị được đầu tư công trình đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam và con số này chưa dừng lại.