Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu giải pháp phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030

Từ hào khí Tháng Tám đến khát vọng chăm sóc sức khỏe Nhân dân Thủ đô “Mở khóa” để nhân tài khoa học, công nghệ cống hiến góp phần đưa đất nước vươn mình

Năng suất lao động tăng trung bình 5%/năm

Nghị quyết nêu rõ, giai đoạn 2021-2024, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản định hướng, chủ trương phát triển nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao. Trong thời gian gần đây, Bộ Chính trị đã ban hành 4 nghị quyết chiến lược, trong đó đều xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, là yếu tố then chốt để triển khai thành công các nghị quyết.

Nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu ngày càng phù hợp hơn. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhìn chung được đào tạo bài bản, có bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực chuyên môn tốt.

Chất lượng, số lượng nhân lực nghiên cứu phát triển từng bước được cải thiện. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm duy trì ở mức dưới 3%. Năng suất lao động tăng trung bình 5%/năm. Thu nhập bình quân của người lao động được gia tăng. Cơ cấu, phân bố lao động có sự dịch chuyển tích cực.

Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Nêu Giải Pháp Phát Triển Nguồn Nhân Lực Đến Năm 2030
Nghị quyết đề ra nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030. Ảnh: Hoàng Phúc

Các chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài, nhân lực chất lượng cao bước đầu phát huy hiệu quả. Nhiều sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ được thu hút, tuyển dụng; nhiều công chức, viên chức được hỗ trợ đào tạo sau đại học trong và ngoài nước.

Một số địa phương, đơn vị thực hiện thi tuyển lãnh đạo, quản lý; thí điểm trả lương cao cho giảng viên, bác sĩ giỏi; có cơ chế nội bộ linh hoạt về lương, môi trường làm việc và các chế độ đãi ngộ khác để giữ người tài…

Chất lượng nguồn nhân lực cải thiện với tốc độ chậm

Về tồn tại, hạn chế, Nghị quyết cho biết, Chính phủ, một số bộ, ngành và hầu hết các địa phương chưa ban hành văn bản tổng thể, định hướng chiến lược dài hạn về phát triển nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao.

Một số chiến lược, chương trình, đề án, trong đó có những văn bản quan trọng, có tính chiến lược chậm được ban hành, tổ chức thực hiện còn hạn chế, kết quả chưa rõ nét. Cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực giáo dục, đào tạo; thu hút, quản lý, sử dụng, trọng dụng nhân lực ở khu vực công lập và ngoài công lập; phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số còn bất cập.

Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa với tốc độ nhanh. Tầm vóc, thể lực của người dân còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực cải thiện với tốc độ chậm, chưa đột phá, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường lao động trong giai đoạn tới…

Bước vào kỷ nguyên mới, yêu cầu về nhân lực chất lượng cao ngày càng cấp thiết, đất nước ta đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành, “tổng công trình sư”, nhóm nghiên cứu mạnh trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế mới, nhân lực phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực quan trọng khác như luật, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn…

Cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa thực sự hợp lý, chưa gắn kết chặt chẽ và theo kịp nhu cầu của thực tiễn, chưa cung cấp đủ nhân lực chuyên sâu, có năng lực làm chủ các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ lõi.

Việc tuyển dụng, sử dụng nhân lực ở khu vực công còn một số bất cập. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở một số bộ, ngành, địa phương chưa gắn với tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo có mặt chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, trong đó có yêu cầu về chuyển đổi số. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước ngoài sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đạt hiệu quả cao.

Ở khu vực ngoài công lập, hệ thống thông tin thị trường lao động chậm được cập nhật, chưa được kết nối, chia sẻ. Chưa khai thác hiệu quả nguồn lực đầu tư tư nhân, vốn đầu tư nước ngoài trong đào tạo, phát triển kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của lao động tại các doanh nghiệp, đặc biệt là lao động có kỹ năng chuyên môn cao.

Cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, nhân lực chất lượng cao chậm đổi mới, môi trường làm việc chưa thực sự hấp dẫn…

Giải pháp phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030

Từ thực tiễn giám sát, Nghị quyết đề ra các nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật. Theo đó, Chính phủ khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ định hướng của Chính phủ xây dựng, ban hành văn bản về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới.

Đồng thời, sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Viên chức…; xây dựng Luật về Dân số, lưu ý các chính sách giảm tốc độ già hóa dân số, duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc; xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển. Khẩn trương nghiên cứu xây dựng Đề án mới, thay thế Đề án “Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới”…

Nghị quyết nêu giải pháp triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch quốc gia, Quy hoạch vùng, quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành, các chương trình, đề án phát triển nguồn nhân lực đã ban hành ; bố trí đủ kinh phí để triển khai đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn ngân sách nhà nước, nhất là nguồn vốn từ các Chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, đề án, dự án đã được phê duyệt cho các nội dung, dự án liên quan đến phát triển nguồn nhân lực.

Đổi mới công tác dự báo nguồn nhân lực. Đẩy mạnh phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hình thành các cơ sở dữ liệu về lao động, quản lý lao động khu vực công lập và ngoài công lập gắn kết, liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong theo dõi, dự báo, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.

Xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo từ bậc phổ thông, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, đào tạo chuyển tiếp; phát triển đa dạng hình thức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức cho người lao động, mở rộng thực hiện hình thức đào tạo trực tuyến.

Thực hiện hiệu quả công tác hướng nghiệp, phân luồng đối với học sinh phổ thông, tăng tỉ lệ học sinh có học lực khá trở lên tham gia giáo dục nghề nghiệp. Phát triển các trung tâm hướng nghiệp tại trường học và cộng đồng, cung cấp thông tin về cơ hội việc làm và ngành nghề tương lai.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm quy mô lao động khu vực phi chính thức; giảm hợp lý tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp, xây dựng và ngành dịch vụ, nhất là ngành công nghiệp công nghệ cao.

Hoàn thiện đề án vị trí việc làm của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập các cấp sau sắp xếp tổ chức bộ máy. Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức gắn với yêu cầu vị trí việc làm, nhu cầu phát triển nguồn nhân lực; tăng cường ứng dụng công nghệ số. Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở khu vực công, bố trí đúng người, đúng việc theo năng lực, trình độ; đánh giá kết quả theo sản phẩm đầu ra…

Để lại một bình luận