Ban hành Khung chỉ số đánh giá tiềm lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia – Tạp chí Doanh nghiệp Việt Nam

DNVN – Bộ Khoa học và Công nghệ vừa chính thức ban hành Quyết định số 2796/QĐ-BKHCN về việc ban hành “Khung chỉ số phục vụ theo dõi, đánh giá tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia”.

Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ /
Bộ Khoa học và Công nghệ làm việc với doanh nghiệp công nghệ thúc đẩy chuyển đổi số

Ảnh Minh Hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Đây được coi là công cụ quan trọng nhằm thực hiện yêu
cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát
triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Khung chỉ số mới ban hành nhằm mục tiêu rõ ràng là phục
vụ việc so sánh giữa Việt Nam với các nước có thu nhập trung bình cao. Công cụ
này ra đời để góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược: Đến năm 2030, tiềm lực và
trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam đạt mức tiên tiến
ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập
trung bình cao.

Khung chỉ số được cấu trúc thành hai phần chính: Khung
đánh giá tiềm lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và Khung đánh giá
trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

 

Khung đánh giá tiềm lực khoa
học công nghệ và đổi mới sáng tạo:

Khung này được
lựa chọn từ Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) do Tổ chức Sở hữu trí tuệ
thế giới (WIPO) công bố hằng năm. Có 35/78 chỉ số của GII được lựa chọn, trong
đó có 19 chỉ số đầu vào và 16 chỉ số đầu ra.

Kết quả xếp hạng
GII sẽ được sử dụng để phân tích, đánh giá tiềm lực khoa học công nghệ và đổi mới
sáng tạo của Việt Nam, so sánh với các nước thu nhập trung bình cao.

 

Các chỉ số
này phản ánh toàn diện từ nguồn nhân lực khoa học công nghệ, đầu tư cho nghiên
cứu – phát triển (R&D), năng lực của trường đại học, các hoạt động khởi
nghiệp sáng tạo và đầu tư mạo hiểm. Ví dụ bao gồm: Tổng chi cho nghiên cứu và
phát triển (GERD) % GDP; Nhà nghiên cứu; hay Số thương vụ đầu tư mạo hiểm các
nhà đầu tư đã thực hiện.

Khung đánh giá trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo

Khung này lựa
chọn 16 trên 27 lĩnh vực cụ thể (cấp 2) được Tổ chức SCImago xếp hạng hằng năm.
SCImago tổng hợp dữ liệu từ hơn 34.100 tạp chí khoa học và 5.000 nhà xuất bản
quốc tế từ 239 quốc gia.

 

Các lĩnh vực
được lựa chọn để đánh giá trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo bao
gồm:

Khoa học tự nhiên (5 lĩnh vực: Toán học, Vật
lý và Thiên văn học, Hóa học, Khoa học Môi trường, Khoa học Trái Đất và hành
tinh).

Khoa học kỹ thuật và công nghệ (4 lĩnh vực:
Khoa học máy tính, Năng lượng, Kỹ thuật, Khoa học Vật liệu).

Khoa học y dược (3 lĩnh vực: Y học, Khoa học
thần kinh, Dược lý học, độc chất học và dược học).

Khoa học nông nghiệp (1 lĩnh vực: Khoa học
nông nghiệp và sinh học).

 

Khoa học xã hội (2 lĩnh vực: Khoa học xã hội,
Tâm lý học).

Khoa học nhân văn (1 lĩnh vực: Nghệ thuật và
nhân văn).

Việc đánh giá
trình độ khoa học công nghệ theo SCImago dựa trên 3 trụ cột: Hiệu suất nghiên cứu
(50%), Đổi mới sáng tạo (30%) (khả năng chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành bằng
sáng chế, công nghệ) và Tác động xã hội (20%).

Tác động và kỳ vọng

 

Việc ban hành khung chỉ số này được kỳ vọng mang lại
ba tác động chính:

Thứ nhất, đây là công cụ giám sát khách quan tiến độ
thực hiện mục tiêu đến năm 2030, giúp nhận diện điểm mạnh, điểm yếu trong hệ thống
đổi mới sáng tạo quốc gia, từ đó định hướng ưu tiên đầu tư và hoàn thiện cơ chế,
chính sách.

Thứ hai, khung chỉ số tạo nền tảng so sánh quốc tế, hỗ
trợ Việt Nam cải thiện vị trí trong GII và các xếp hạng chuyên ngành, đồng thời
nâng cao sức hấp dẫn đối với dòng vốn đầu tư công nghệ cao và các dự án hợp tác
nghiên cứu, chuyển giao tri thức.

 

Thứ ba, đây là bước tiến quan trọng trong hiện đại hóa
hệ thống thống kê khoa học công nghệ, đặt nền tảng cho việc cập nhật định kỳ và
liên thông dữ liệu trong nước với các tổ chức quốc tế như WIPO và SCImago.

Để Khung chỉ số phát huy tối đa tác dụng, cần có sự phối
hợp chặt chẽ giữa Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ ngành, địa phương, cùng sự
tham gia của cộng đồng khoa học và doanh nghiệp trong việc cung cấp số liệu,
nâng cao chất lượng nghiên cứu và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Việc hình thành
khung chỉ số thống nhất không chỉ góp phần hiện thực hóa định hướng chiến lược
của Đảng và Nhà nước mà còn tạo đòn bẩy để khoa học công nghệ trở thành động lực
then chốt cho tăng trưởng bền vững của đất nước.

Hiền Thảo






 


Để lại một bình luận