Nằm nép mình bên dòng sông Hồng, làng Xuân La (huyện Phú Xuyên, Hà Nội) là cái nôi của nghề nặn tò he lâu đời. Không đơn thuần là một kế sinh nhai, nghề nặn tò he từ lâu đã trở thành một nét đẹp văn hóa dân gian, phản ánh tinh thần sáng tạo và tâm hồn của người Việt.

Căn nhà nhỏ giữa làng, nghệ nhân Đặng Đình Hờn vẫn ngày ngày tỉ mỉ nặn những con tò he với sự trân quý như đang giữ gìn hồn cốt của dân tộc. Điều gì đã khiến tò he giữ được sức sống bền bỉ suốt bao thế hệ?

Tò he truyền thống - Hy vọng và tiếp nối - Ảnh 1.

Nghệ nhân Đặng Đình Hờn – nghệ nhân đời thứ 3 của làng nghề tò he. Ảnh: Hồng Ngọc

Rẽ vào lối nhỏ

Chỉ sau hơn một giờ xuất phát từ trung tâm thành phố, chúng tôi đã đặt chân đến làng Xuân La, huyện Phú Xuyên, Hà Nội – cái nôi sinh ra nghề tò he và được gìn giữ qua bao thế hệ. Chúng tôi rẽ vào con đường làng nhỏ bé, như thể bước sang một thế giới khác, thế giới cho chúng tôi quay trở lại làm những đứa con nít vẫn còn mè nheo đòi mẹ mua đồ ăn vặt sau khi tan học.

Giữa không gian ấy, một người đàn ông mặc áo nâu sậm, chừng ngoài 50, hồ hởi ra tiếp đón chúng tôi như những vị khách quý lâu năm. Đó là nghệ nhân tò he đời thứ ba có tiếng trong làng, bác Đặng Đình Hờn. Bác mời chúng tôi ấm nhân trần nóng hổi và vài chiếc kẹo lạc được đựng trong túi mây. Sân nhà của bác được lát gạch đơn sơ nhưng hiện lên đầy sinh động với hai góc trưng bày tò he. Hỏi ra mới hay, cái “làng tò he” bé xíu ấy được bác Hờn vun vén từ năm 2015.

Những con tò he do chính tay bác nặn được trang trí quanh sân, một góc sân nhỏ thôi nhưng chứa đựng cả tuổi thơ của biết bao thế hệ. Chúng tôi tròn mắt ngạc nhiên, nhìn xung quanh một lượt, nào là chú gà trống sặc sỡ với cái mào đỏ chót, siêu nhân với chiếc áo choàng phấp phới, nàng tiên cá có mái tóc dài,.. y hệt trong những bộ phim hoạt hình chúng tôi xem từ nhỏ, và cả mô hình Hồ Gươm mà bác vô cùng tâm đắc.

Tò he truyền thống - Hy vọng và tiếp nối - Ảnh 2.

Góc tò he của nghệ nhân Đặng Đình Hờn. Ảnh: Minh Thư

Chiếc lược gãy

Sau vài ba câu chuyện làm quen, chúng tôi cũng xắn tay vào làm công đoạn đầu tiên trong hành trình tạo ra con tò he cho riêng mình. Lúc này, bác Hờn giống như người thầy giáo kiên nhẫn, tỉ mỉ hướng dẫn cho những “học trò” lần đầu hành nghề. Còn chúng tôi, ngẩn ngơ nhìn đôi bàn tay thoăn thoắt nặn ra bông hồng trong chưa đầy 5 phút. Giây phút ấy, chúng tôi cảm giác như được quay lại cái thời nắn nót những nét chữ đầu tiên của cuộc đời, vừa hồi hộp vừa vụng về.

Điều quan trọng để làm ra một chiếc tò he là phần “cốt” – que tre được vót nhọn khoảng 20 – 30cm, đầu nhọn xiên với phần bột tạo hình để cố định tò he. Bột nếp là nguyên liệu không thể thiếu để tạo ra những chiếc tò he. Ngày nay, muốn tò he bảo quản lâu hơn, nghệ nhân sẽ pha thêm keo theo tỉ lệ tùy chỉnh. Bột được xay nhỏ mịn, nhào nhuyễn rồi được bảo quản trong túi nilon để tránh bị khô. Sau đó, thợ nặn tò he chia bột thành phần để nhuộm màu, theo thuật ngữ nghề là “thấu màu”, tức là nhuộm sao cho ngấm đều từ ngoài vào trong. Để tay không dính bột, người thợ sẽ thoa một lớp sáp ong vào tay để giữ cho từng đường nét tò he mềm mại hơn.

Ngày xưa, tò he chỉ có ba gam màu cơ bản là: đỏ từ gấc, vàng từ nghệ, xanh từ lá trầu, toàn là những thứ có sẵn trong vườn nhà. Để có bảng màu phong phú, nghệ nhân pha khéo các màu cơ bản. Màu đen thì lấy từ nhọ nồi, một vật dụng quen thuộc trong căn bếp ngày xưa.

“Thế làm sao để tạo hình ra được mắt, mũi, những đường vân trông sống động như thế ạ?”, nhóm chúng tôi tò mò. Bác Hờn cười hiền, rồi lấy ra từ hộp đồ nghề một vật nhỏ xíu: “Đây, bí quyết là chiếc lược gãy này đây. Lược xịn không làm được đâu, lược phải gãy thì mới làm được cơ”. Chúng tôi bật cười, không rời mắt khỏi các thao tác của bác. Chiếc lược gãy, với hai răng ở chính giữa như hai chiếc răng cửa, được bác cầm nghiêng, ấn nhẹ vào từng chi tiết nhỏ xíu. Từng đường nét hiện lên trên thân rồng, mắt mũi các con vật hay những nếp áo nhân vật đều được chiếc lược gãy chạm khắc tỉ mỉ. Sau khi thấy một người trong nhóm chúng tôi nặn con lợn trông như củ khoai tây biết đi, bác Hờn bật cười, gật gù: “Giỏi đấy chứ! Mới lần đầu như thế là khéo rồi”. Sau đó, bác nhấp một ngụm nhân trần, quay sang nhìn chúng tôi. “Hồi xưa, các cụ để tò he trên những cái mẹt rồi gánh đi bán khắp các chợ cóc ở Hà Nội. Có những con tò he đặc biệt được nặn rỗng bên trong, khi thổi sẽ phát ra âm thanh “toe toe” vui tai, thế là dân gian mới gọi đùa thành “con tò he”. Có lẽ mấy nhà báo ngày xưa về làng, nghe mấy câu truyền miệng ấy rồi thấy thú vị quá, nên ghi luôn là “tò he”. Từ đó, cái tên ấy gắn liền với biết bao thế hệ”, bác chia sẻ.

Tò he truyền thống - Hy vọng và tiếp nối - Ảnh 3.

“Bộ đồ nghề” làm ra những chiếc tò he. Ảnh: Minh Thư

“Tò he không bỏ được đâu cháu ạ…”

Nổi bật trong góc nhà là mô hình Hồ Gươm được đặt trang trọng trong lồng kính. “Bác hoàn thiện mô hình này từ năm 2017. Nó ra đời một phần vì bác muốn quảng bá biểu tượng của quê hương, một phần vì muốn có một tác phẩm để đời trong sự nghiệp làm tò he của mình. Bác dành trọn một tháng để trau chuốt, tỉ mỉ từng bậc thềm, từng mảng rêu phong trên Tháp Rùa cổ kính. Điều làm bác vui nhất là khách du lịch ở khắp nơi trên thế giới khi đến đây đều trầm trồ khen ngợi tác phẩm này”, bác chia sẻ. Nếu không phải đang ngồi giữa làng nghề truyền thống tò he, có lẽ chúng tôi đã tưởng mô hình Hồ Gươm là một bức tượng được dựng công phu bằng những chất liệu hiện đại như xi măng, thạch cao, chứ không phải đơn giản được làm nên từ bột nếp và đôi bàn tay của một nghệ nhân lâu năm.

Nói xong, bác chỉ tay vào một anh thanh niên có nụ cười rạng rỡ đứng cạnh bác trong tấm biển quảng cáo treo trên bức tường ngoài sân. Đây là bức ảnh bác đã chụp trong chương trình quảng bá làng nghề tò he của đài Truyền hình Việt Nam.

“Con trai bác đấy”, bác cười, “Nó thiết kế cho bác tấm biển quảng cáo hoành tráng này. Nó tự hào lắm vì được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống làm tò he lâu đời. Nó biết làm tò he đẹp lắm, nhưng không theo nghiệp bác, chắc là do ít “xèng” quá”.

Tò he truyền thống - Hy vọng và tiếp nối - Ảnh 4.

Tháp Rùa được làm từ bột tò he. Ảnh: Minh Thư

“Tò he có thể được biết đến ít hơn, nhưng không bỏ tò he được đâu các cháu ạ”. Nghe câu nói ấy cùng đôi ba lời tâm sự từ bác, chúng tôi chợt hiểu rằng khi con người ta gắn bó đủ lâu với một nghề, nó không chỉ là cái nghề để mưu sinh, mà nó còn gắn với tâm hồn, ký ức. Với bác, tò he là những kí ức gắn liền với bố mẹ, là những buổi chiều ngồi nặn bột ở sân nhà, là những trận mắng chỉ vì một lần lỡ ăn vụng bột gạo nếp – nguyên liệu quý đến mức “ăn thì không có gì làm”. Đằng sau một con tò he bé tí kia là cả một đời người âm thầm gom góp từng kỷ niệm, từng nét văn hóa, từng niềm tự hào để thổi hồn vào từng tạo hình giản dị.

Tò he là nghề gia truyền, nhưng cũng giống như bố mẹ mình ngày trước, bác không bắt con cái phải nối nghiệp. Con trai bác Hờn chọn đi theo một hướng đi riêng, không nối nghiệp cha một cách trọn vẹn. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa là nghề tò he sẽ mai một. Hồi nhỏ bác vẫn dạy anh nặn tò he, rồi mai này anh lại truyền cho con, cứ thế tò he sẽ sống mãi. Với bác, đây là cái vốn liếng thiêng liêng mà tổ tiên truyền lại, không thể để mai một. Con trai bác không nặn tò he để mưu sinh, nhưng vẫn gắn bó theo cách riêng, quảng bá đến thế hệ trẻ, như việc anh thiết kế “tấm biển quảng cáo to đùng” cho bác, để ai ghé qua cũng được nhìn thấy hành trình đầy tự hào của một nghệ nhân tò he.

“Đồ chơi giờ hiện đại lắm, nhập ngoại đủ màu sắc, lại còn biết nhún nhảy, phát nhạc các thứ. Bây giờ cứ có nhân vật hoạt hình nào mới, bác chỉ cần nhìn qua một cái là làm được luôn. Mấy đứa trẻ con khoái mấy cái hình thù này lắm. Mình cũng cần thích nghi, cập nhật xu hướng”, bác Hờn tâm sự. Góc sân nhỏ của bác không chỉ có những mẫu tò he truyền thống, mà còn hiện diện những nhân vật hoạt hình như bước ra từ màn hình điện thoại. Trên chiếc thùng xốp cắm đầy những que tre nào là siêu anh hùng, công chúa tóc mây, nàng tiên cá, v.v. lần lượt hiện lên một cách sinh động, minh chứng cho sự thích nghi với thời đại của nghề nặn tò he.

Tuy tuổi đã cao, bác Hờn vẫn đi khắp nơi biểu diễn nghề nặn “bánh chim cò”. Với bác, chỉ cần đôi tay còn có thể nặn hình, thì cái nghề vẫn sẽ còn đó. Nhưng hơn cả sự bền bỉ, điều khiến chúng tôi thực sự ấn tượng là cách bác chủ động “thổi hồn mới” vào làng nghề bằng một hướng đi đầy sáng tạo. Bác biến chính ngôi nhà của mình thành một không gian du lịch trải nghiệm làng nghề. Mô hình này đã thu hút phần lớn là du khách nước ngoài đến từ khắp nơi trên thế giới. Ở đây, du khách tận mắt chứng kiến quy trình làm tò he, lắng nghe những câu chuyện văn hóa đằng sau từng tạo hình nhỏ bé, đặc biệt còn được tự tay nặn dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của bác. Có tháng, bác đón tới hơn 60 đoàn khách. Không chỉ tạo thêm thu nhập, mô hình này đã thổi một luồng sinh khí mới vào tò he, biến tò he trở thành một trải nghiệm văn hóa đầy ý nghĩa.

Tò he hôm nay không chỉ là hình ảnh tĩnh về làng nghề cổ truyền xưa cũ, mà đã trở thành một trải nghiệm văn hóa, có khả năng kết nối, lan tỏa và truyền cảm hứng. Chính sự kết hợp giữa bảo tồn và đổi mới ấy đã giúp tò he trở thành một nét văn hóa dân gian tồn tại bền bỉ giữa thời đại mới.

Tò he truyền thống - Hy vọng và tiếp nối - Ảnh 5.

Những chiếc tò he truyền thống được gìn giữ qua bao thế hệ. Ảnh: Minh Thư

Khoảnh khắc chuyển giao

Trò chuyện chưa được bao lâu mà mặt trời đã lên đến đỉnh. Cái nắng đầu hạ dịu dàng như chẳng muốn làm phiền đến ai. Cái khoảnh khắc giao mùa ấy bỗng khiến chúng tôi lặng người, nghĩ về sự tiếp nối, giữa những giá trị xưa cũ và lớp trẻ mai sau. Bác dặn chúng tôi nhiều điều, nhưng câu chuyện về lần bác định dùng máy trộn bột để làm tò he lại khiến chúng tôi nhớ nhất. Bác kể, hồi xưa, bác đã từng nghĩ sẽ dùng máy trộn bột hay rập khuôn để làm cho nhanh nhưng cuối cùng vẫn không hay. Bởi ngay lúc chạm vào thứ bột ấy, bác nhận ra, khi thành hình, nó sẽ không còn mang cái hồn của tò he. Lúc ấy, chúng tôi nhận ra giữa thế giới đổi mới không ngừng vẫn có những người nghệ nhân kiên trì gìn giữ lấy cái chất, cái hồn của nghệ thuật dân tộc truyền thống.

Vậy là đã đến lúc chúng tôi thoát vai đứa trẻ đang mải mê chơi đất nặn để trở lại những cô thanh niên trưởng thành, biết sống với trách nhiệm và lý tưởng. Chúng tôi đứng dậy, bắt tay rồi dặn bác giữ gìn sức khỏe. Bác tiễn chúng tôi ra đến tận cổng. Bước ra khỏi căn nhà nhỏ, nhóm chúng tôi vẫn cảm nhận hơi ấm từ bàn tay bác – đôi bàn tay vẫn còn vương chút bột. Khoảnh khắc đó chúng tôi nhận ra, cái bắt tay chẳng đơn thuần là lời chào tạm biệt, mà như sự gửi gắm, một niềm tin bác trao cho thế hệ trẻ. Đứng dưới hiên nhà nhỏ, bác nhẹ nhàng dặn dò: “Nếu có cơ hội nhớ ghé qua chơi với bác nhé. Bác mong, mấy đứa học hành giỏi giang, cố gắng quảng bá mà giữ được cái nghề tò he”.

Một lời chào tạm biệt, nhưng lại làm mỗi người trong chúng tôi suy nghĩ nhiều. Chúng tôi, những người trẻ đang đứng giữa dòng chảy của thời đại, nhưng liệu có bao giờ “sống chậm” lại để tự vấn bản thân: trách nhiệm của chúng tôi với những giá trị xưa cũ là gì? Bác Hờn đã nuôi dưỡng trong chúng tôi tình yêu với tò he, với làng nghề, không bằng những lời văn hoa mỹ, mà bằng chính sự tận tâm, kiên trì trong từng chi tiết nặn, và cả sự trân quý mà bác dành cho nghề. Là những người yêu mến nét đẹp nghệ thuật dân gian này, chúng tôi tin rằng, tò he vẫn sẽ sống trong nhịp thở của thời đại, không chỉ là niềm tự hào văn hóa Việt, mà còn vươn xa hơn, trở thành dấu ấn độc đáo trên bản đồ văn hóa thế giới.

  • Các trò chơi dân gian được yêu thích trong dịp Tết

    Các trò chơi dân gian được yêu thích trong dịp Tết

     30/01/2025 07:00

Trước khi rời đi, chúng tôi buột miệng hỏi một câu có phần ngây ngô: “Những chiếc tò he này… liệu có giữ được cả đời không ạ?”. Bác không trả lời ngay, chỉ lặng lẽ cầm lấy một con tò he cũ, dùng tay nhẹ nhàng lau đi lớp bụi mỏng. Rồi bác mỉm cười: “Không có gì trên đời giữ được mãi mãi đâu cháu ạ, nhưng những chiếc tò he thì sẽ ở lại rất lâu, nếu người ta biết lau sạch, gìn giữ… và nhất là, giữ nó trong tim mình”.

Chúng tôi kết thúc hành trình của mình ở đây, tại “làng tò he thu nhỏ” của nghệ nhân Đặng Đình Hờn. Chuyến đi này với chúng tôi không chỉ dừng lại là một làng nghề, mà còn là cuộc gặp gỡ với ký ức, nhìn ngắm những nghệ nhân vẫn đang lặng thầm gìn giữ tò he. Con đường hồi sinh nghề nặn “bánh chim cò” này giờ đây không còn là chặng đường riêng của những nghệ nhân mà đã có thêm những bước chân của thế hệ trẻ, những người như chúng tôi.