Bài 2: Khẳng định vị thế Thủ đô sau giải phóng

Hà Nội bước vào kỷ nguyên vươn mình với tầm nhìn đổi mới và ba đột phá chiến lược Dấu ấn Đảng bộ thành phố Hà Nội qua các kỳ Đại hội Muốn đột phá, Hà Nội phải phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao

Khởi đầu công nghiệp hóa Thủ đô

Được dẫn dắt bởi đường lối của Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, ngày 25/1/1961, Đại hội đại biểu lần thứ II Đảng bộ thành phố Hà Nội đã long trọng khai mạc tại Nhà hát Lớn, kéo dài đến 2/2/1961. Đây là đại hội đánh dấu bước chuyển quan trọng, mở đầu cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở Thủ đô. Tham dự đại hội có 310 đại biểu thay mặt cho hơn 2 vạn đảng viên, mang theo tinh thần quyết tâm đưa Hà Nội từ một thành phố tiêu thụ trở thành thành phố sản xuất, gắn liền với công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đánh giá thắng lợi lớn nhất của nhiệm kỳ trước là sự biến đổi căn bản trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Thủ đô đã thoát khỏi hình ảnh một đô thị chủ yếu tiêu dùng để trở thành trung tâm sản xuất, bước đầu có nền công nghiệp cơ khí, dệt may, chế biến. Đại hội xác định rõ nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ mới là phát triển công nghiệp và nông nghiệp, coi công nghiệp, kể cả tiểu thủ công nghiệp, là trọng tâm. Đồng thời, việc tiếp tục cải tạo và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được đặt song song với quy hoạch xây dựng đô thị hiện đại. Hà Nội cũng đặc biệt quan tâm tới giáo dục, y tế, nâng cao đời sống nhân dân, tiếp tục góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Bài 2: Khẳng Định Vị Thế Thủ Đô Sau Giải Phóng
Sau giải phóng (1954) Hà Nội bắt tay xây dựng CNXH làm hậu phương vững chắc cho chặng đường đấu tranh thống nhất đất nước.

Ngày 1/2/1961, Đại hội vinh dự được đón Bác Hồ. Trong lời phát biểu ngắn gọn nhưng sâu sắc, Người nhấn mạnh: “Trước hết là Đảng phải chuyển biến mạnh, Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do các đảng viên hăng hái và gương mẫu”. Câu nói ấy trở thành kim chỉ nam, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên Hà Nội về trách nhiệm tiên phong. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 30 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Tháng 6/1961, đồng chí Nguyễn Lam được Bộ Chính trị điều động về làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, đảm nhận vai trò lãnh đạo Đảng bộ Thủ đô trong giai đoạn đầy thử thách.

Song song với Hà Nội, các tỉnh Hà Đông và Sơn Tây cũng tổ chức đại hội Đảng bộ. Hà Đông tiến hành Đại hội lần thứ III vào tháng 2/1961, đề ra nhiệm vụ phát triển nông nghiệp toàn diện, công nghiệp địa phương, thương nghiệp hợp tác xã, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sơn Tây tổ chức Đại hội cùng năm, nhấn mạnh nhiệm vụ học tập nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III, củng cố cơ sở, phát triển kinh tế và văn hóa, đưa nghị quyết của Đảng vào đời sống thực tiễn. Sự đồng hành ấy cho thấy tinh thần đoàn kết và sự gắn bó mật thiết giữa Hà Nội và các tỉnh phụ cận trong công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Bước sang đầu thập niên 1960, công cuộc xây dựng Thủ đô vừa khởi sắc thì đất nước lại đứng trước nguy cơ chiến tranh leo thang. Năm 1963, Đại hội đại biểu lần thứ III Đảng bộ thành phố Hà Nội diễn ra từ ngày 1 đến 8/7 tại Nhà hát Lớn, quy tụ 240 đại biểu thay mặt cho 65.000 đảng viên. Báo cáo trình tại đại hội đã chỉ ra kết quả 2 năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965): “Thành phố đã giành được những thành tựu to lớn, bước đầu thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tăng cường một bước lực lượng kinh tế quốc doanh, xây dựng cơ sở vật chất cho các ngành kinh tế; tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất mới trong các hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, trong khu vực công tư hợp doanh, thực hiện cách mạng tư tưởng và văn hóa, tiến hành nhiều biện pháp cải thiện đời sống thêm một bước”.

Đại hội xác định nhiệm vụ của Đảng bộ trong nhiệm kỳ mới là: Xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho các ngành kinh tế, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất, ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp… Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa mới gồm 29 ủy viên chính thức, 6 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Lam tiếp tục được tín nhiệm bầu làm Bí thư Thành ủy.

Cùng với Hà Nội, Hà Đông cũng tổ chức Đại hội IV Đảng bộ vào tháng 6/1963 với 230 đại biểu, đề ra mục tiêu đưa tỉnh trở thành vựa lúa, phát triển nông nghiệp toàn diện, khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp địa phương, đồng thời tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Sơn Tây tổ chức Đại hội IV từ tháng 7 đến đầu tháng 8/1963, khẳng định nhiệm vụ phát triển nông nghiệp mạnh mẽ và vững chắc, đồng thời chú trọng công nghiệp địa phương để tự chủ hơn về lương thực, dự trữ.

Những nghị quyết, chủ trương từ các đại hội này đã giúp Hà Nội và vùng phụ cận chuẩn bị thế và lực cho giai đoạn khốc liệt tiếp theo.

Vừa xây dựng, vừa chiến đấu

Từ năm 1965, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hà Nội trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt. Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu lần thứ IV Đảng bộ thành phố Hà Nội vẫn được tổ chức trọng thể tại Câu lạc bộ Lao động (nay là Cung Thanh niên Hà Nội) từ ngày 8 đến 13/4/1968. Đại hội quy tụ 312 đại biểu chính thức và 19 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 52.000 đảng viên, có sự tham dự của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Chủ đề của Đại hội IV là “Phát huy dân chủ, mở rộng khí thế cách mạng tiến công, tiến lên giành thắng lợi lớn nhất trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Báo cáo tại đại hội đã kiểm điểm toàn diện tình hình Thủ đô sau bốn năm thực hiện nghị quyết Đại hội III (1964-1967), chỉ rõ những thành tựu trong sản xuất, chiến đấu và đời sống nhân dân. Đại hội đề ra nhiệm vụ cao trào thi đua sản xuất và chiến đấu trong các năm 1968-1969, khẳng định dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Hà Nội cũng phải vững vàng chiến đấu, bảo vệ Thủ đô, đánh bại âm mưu phá hoại của Mỹ, đồng thời không ngừng xây dựng kinh tế, văn hóa, chăm lo đời sống nhân dân và hết lòng chi viện cho miền Nam. Tinh thần “vừa xây dựng, vừa chiến đấu” của Đại hội IV là minh chứng rõ nét nhất cho bản lĩnh của Đảng bộ và nhân dân Hà Nội. Giữa mưa bom bão đạn, Thủ đô vẫn duy trì sản xuất, tiếp tục phát triển giáo dục, y tế, văn hóa; hàng vạn cán bộ, công nhân viên, trí thức, học sinh, sinh viên hăng hái lên đường chi viện tiền tuyến. Đại hội cũng nêu rõ quyết tâm chuẩn bị kế hoạch xây dựng lại Thành phố sau ngày hòa bình.

Ban Chấp hành khóa mới gồm 24 ủy viên chính thức và 7 dự khuyết, đồng chí Nguyễn Văn Trân tiếp tục được bầu làm Bí thư Thành ủy. Đây là tập thể đã cùng nhân dân Thủ đô trải qua những năm tháng ác liệt, bảo vệ Hà Nội, giữ vững trái tim của cả nước.

Nhìn lại giai đoạn 1961-1968, có thể thấy các kỳ Đại hội Đảng bộ Hà Nội đã thực sự trở thành những dấu mốc quan trọng, vừa hoạch định đường lối phát triển kinh tế – xã hội, vừa lãnh đạo nhân dân kiên cường trong chiến đấu. Đại hội II khởi đầu công cuộc công nghiệp hóa, Đại hội III củng cố bước tiến ấy và chuẩn bị đối phó với thử thách, trong khi Đại hội IV thể hiện tinh thần kiên trung, bền bỉ của Hà Nội trong kháng chiến chống Mỹ. Cùng với đó, sự đồng hành của các Đảng bộ Hà Đông, Sơn Tây càng củng cố sức mạnh chung của vùng đất Thăng Long – xứ Đoài, tạo thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Những nghị quyết, quyết tâm được thông qua ở các đại hội không chỉ mang tính chỉ đạo nhất thời, mà còn khẳng định tầm nhìn chiến lược, đặt nền móng cho sự phát triển lâu dài của Thủ đô sau ngày đất nước thống nhất.

Ngày nay, khi nhìn lại chặng đường lịch sử ấy, chúng ta càng trân trọng tinh thần vượt khó, sự kiên định và bản lĩnh của Đảng bộ, nhân dân Hà Nội. Trong mưa bom bão đạn, Hà Nội vẫn nỗ lực xây dựng kinh tế, giữ gìn văn hóa, bảo vệ từng mái nhà, từng con phố. Sau hòa bình, những bài học quý báu từ các kỳ đại hội trở thành di sản tinh thần, tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ hôm nay trong công cuộc xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại, giàu đẹp.

Để lại một bình luận