‘Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp 60% kéo dài làm giảm động lực tìm việc mới’

Khi góp ý mức hưởng trợ cấp thất nghiệp trong Luật Việc làm (sửa đổi), nhiều đại biểu Quốc hội đề xuất tăng mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng lên tối thiểu 65% mức lương bình quân, và cho phép Chính phủ nâng tối đa 75% trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh quy mô lớn.

Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng mức hưởng 60% hiện tại là phù hợp thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo nguyên tắc mức hưởng gắn với mức đóng và khả năng cân đối Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, nên đề nghị giữ nguyên.

Từ góc độ chính sách quốc tế, các chuyên gia cho rằng có thể thiết kế linh hoạt hơn: tăng mạnh mức hưởng ở những tháng đầu, giảm dần về sau; đặt sàn hưởng tối thiểu cho lao động thu nhập thấp; kết hợp thúc đẩy quay lại thị trường và đảm bảo an sinh.

TS Trần Thị Kiều Trang, giảng viên Khoa Luật, Đại học Deakin (Australia), cho hay việc duy trì mức hưởng cao ngay khi mới thất nghiệp sẽ giúp người lao động ổn định tạm thời, sau đó giảm dần để tạo động lực quay lại thị trường.

Bà lấy ví dụ Malaysia chi trả 80% lương ở tháng đầu, sau đó giảm dần ở tháng thứ hai và chỉ còn 30% vào tháng thứ 5, 6. Nước này còn có khoản hỗ trợ nếu người lao động quay lại làm việc sớm, tương đương 25% phần trợ cấp còn lại.

Tại Thái Lan, nếu người lao động tự nghỉ việc, mức trợ cấp chỉ là 30% trong tối đa 3 tháng. Ngược lại, người bị sa thải, doanh nghiệp phá sản sẽ được hưởng 50% kéo dài đến 6 tháng.





Người lao động nộp hồ sơ, làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm TP HCM, quận Bình Thạnh, tháng 6/2025. Ảnh: Quỳnh Trần

Người lao động nộp hồ sơ, làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm TP HCM, quận Bình Thạnh, tháng 6/2025. Ảnh: Quỳnh Trần

Đồng quan điểm, ông Lưu Kim Hồng, Chủ tịch công đoàn Công ty Nidec Việt Nam, mức trợ cấp thất nghiệp nên tăng ở những tháng đầu tiên sau đó giảm dần. Việc duy trì một mức hưởng 60% và kéo dài đến 12 tháng khiến lao động muốn hưởng hết trợ cấp và giảm động lực tìm việc làm mới.

“Tăng tỷ lệ những tháng đầu lên cao hơn và giảm những tháng cuối giúp tổng số tiền mà quỹ chi trả vẫn không đổi nhưng sẽ thúc đẩy lao động đi tìm việc mới vì tiền nhận được ngày càng ít”, ông Hồng nói.

Cùng với điều chỉnh mức hưởng, Chủ tịch công đoàn Công ty Nidec Việt Nam cho rằng cần có cơ chế giám sát để trợ cấp thất nghiệp đến tay những người thực sự cần và đang nỗ lực tìm việc.

Theo ông, nếu không kiểm soát tốt, chính sách này có thể bị lợi dụng và gây xáo trộn cho doanh nghiệp. Dẫn chứng từ thực tế tại doanh nghiệp mình, ông Hồng cho biết nhiều lao động chỉ thích làm thời vụ để vừa có thu nhập, vừa đủ điều kiện nhận trợ cấp thất nghiệp. Khi được đề nghị ký hợp đồng chính thức, họ từ chối.

“Có trường hợp làm đủ một năm – vừa đủ điều kiện hưởng – sau đó xin nghỉ. Họ vẫn đi làm thời vụ ở nơi khác nhưng vẫn nhận đủ 3 tháng trợ cấp”, ông nói, cho biết tình trạng này khiến doanh nghiệp đối mặt nhiều vấn đề như lao động không ổn định; vi phạm pháp luật do áp lực thiếu người phải nhận công nhân làm thời vụ mà không khai báo đóng bảo hiểm…

Bên cạnh mục tiêu thúc đẩy người lao động sớm quay lại thị trường, nhiều quốc gia còn thiết kế chính sách trợ cấp theo hướng ưu tiên nhóm yếu thế, thu nhập thấp, theo TS Trần Thị Kiều Trang, giảng viên Đại học Deakin (Australia).

Theo bà Trang, ngoài nguyên tắc “đóng – hưởng”, bảo hiểm thất nghiệp còn vận hành theo nguyên lý chia sẻ. Tức là những người có việc làm đóng góp vào quỹ để hỗ trợ người không may mất việc. Số tiền nhận được có thể ít hoặc nhiều hơn mức đã từng đóng, tùy hoàn cảnh mỗi người. Do đó, việc ưu tiên hỗ trợ nhóm yếu thế là phù hợp với bản chất của bảo hiểm thất nghiệp.

“Nhóm lao động thu nhập thấp thường có trình độ, kỹ năng hạn chế, khó tích lũy tài chính. Khi mất việc, họ dễ rơi vào cảnh khó khăn hơn và cũng khó tìm việc mới hơn người có tay nghề cao,” bà Trang nói.

Tại Singapore, người lao động có thu nhập dưới 5.000 SGD/tháng – thấp hơn mức bình quân toàn quốc là 7.500 SGD – sẽ được nhận trợ cấp thất nghiệp theo chính sách riêng.

Ở Nhật Bản, tỷ lệ hưởng trợ cấp thất nghiệp dao động từ 50–80% thu nhập hàng tháng trước khi nghỉ việc. Người chủ động nghỉ việc hoặc có thu nhập cao thường chỉ nhận 50% trong tối đa 6 tháng. Trong khi đó, lao động bị sa thải, công ty phá sản hoặc có thu nhập thấp có thể nhận tới 80% và kéo dài thời gian hưởng đến 11 tháng.

“Chính sách theo hướng phân tầng này giúp đảm bảo mục tiêu cốt lõi của trợ cấp thất nghiệp là duy trì mức sống cơ bản, không để ai rơi vào đói nghèo trong giai đoạn chưa có việc làm”, bà Trang lý giải.

Tại Hàn Quốc, ngoài việc quy định mức trần, chính phủ còn ấn định mức sàn trợ cấp không thấp hơn 80% lương tối thiểu. Chính sách này giúp người lao động không rơi vào cảnh thiếu thốn trong thời gian thất nghiệp, nhất là với những người không có tích lũy.

Ông Trần Dũng Hà, Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội khu vực XXVII (TP HCM, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu), cho rằng chính sách trợ cấp thất nghiệp cần quan tâm hơn nhóm lao động yếu thế như người thu nhập thấp, làm công việc phổ thông và không có tích lũy tài chính. Với nhóm này, chỉ cần một giai đoạn ngắn không có việc làm cũng dễ rơi vào khó khăn.

Theo ông Hà, trong trường hợp chưa thể nâng mức hưởng chung cho toàn bộ người thất nghiệp, có thể cân nhắc bù đắp thêm cho những trường hợp mức trợ cấp dưới chuẩn nghèo hoặc thấp hơn mức sống tối thiểu của địa phương. Chẳng hạn, tại TP HCM, chuẩn nghèo hiện nay là 3 triệu đồng mỗi tháng. Nếu người lao động sau khi nghỉ việc nhận trợ cấp dưới mức này, có thể xem xét bổ sung hỗ trợ để đảm bảo mức sống cơ bản.

Tuy nhiên, ông cũng lưu ý để hỗ trợ đúng người, cần xác định chính xác thu nhập thực tế của lao động. Hiện mức trợ cấp được tính dựa trên tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp, trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn khai thấp để giảm chi phí. “Nếu mức đóng không phản ánh đúng thu nhập thực tế, sẽ tạo ra mặt bằng trợ cấp thấp hơn nhu cầu sống tối thiểu, đặc biệt là với lao động yếu thế”, ông Hà nói.





Người lao động làm thủ tục nhận trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm TP HCM. Ảnh: Thanh Tùng

Người lao động làm thủ tục nhận trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm TP HCM. Ảnh: Thanh Tùng

Trong khi đó, ông André Gama, Giám đốc Chương trình An sinh xã hội, ILO Việt Nam, cho rằng mức hưởng và thời gian nhận trợ cấp thất nghiệp cần được thiết kế thận trọng, vừa đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động, vừa duy trì động lực tìm kiếm việc làm.

Theo ông, yếu tố then chốt để nâng cao phúc lợi cho người thất nghiệp là tăng hiệu quả của các chính sách hỗ trợ chủ động, đặc biệt là đào tạo và giới thiệu việc làm trong thời gian nhận trợ cấp. Những chính sách này không chỉ khuyến khích người lao động nhanh chóng quay lại thị trường mà còn giúp họ tìm được việc phù hợp với kỹ năng, năng lực và nguyện vọng.

Luật Việc làm 2013 đã quy định người hưởng trợ cấp thất nghiệp có quyền tiếp cận các chính sách đào tạo nghề và giới thiệu việc làm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều lao động từ chối các cơ hội giới thiệu việc làm với lý do không phù hợp, hoặc cho rằng các khóa đào tạo chưa thiết thực, không giúp họ cải thiện cơ hội việc làm.

Ông Gama cho hay việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ này cần được coi là một phần quan trọng trong quá trình sửa đổi Luật Việc làm, nhằm nâng chất lượng dịch vụ và đáp ứng sát nhu cầu thực tế của người lao động.

Lê Tuyết





Để lại một bình luận