Tám thập kỷ xây dựng và phát triển ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam

Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội đạt nhiều kết quả tích cực trong 6 tháng đầu năm Lan tỏa các giá trị văn hóa cốt lõi, bản sắc Việt Nam tới thế hệ trẻ

Chặng đường 80 năm qua những giai đoạn lịch sử

Lịch sử hình thành ngành Văn hóa có nguồn gốc từ những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ 20, trong bối cảnh chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa đánh đổ chế độ phát xít, thực dân phong kiến. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Tổng Bí thư Trường Chinh đã sớm nhận ra vai trò to lớn và quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Tám Thập Kỷ Xây Dựng Và Phát Triển Ngành Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Việt Nam
Tiết mục múa biểu diễn phục vụ nhân dân các dân tộc Điện Biên. (Ảnh tư liệu)

Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã thông qua “Đề cương Văn hóa Việt Nam” – văn kiện lịch sử đặt nền móng lý luận và định hướng cho sự hình thành nền văn hóa Việt Nam mới. Đề cương này nêu rõ ba nguyên tắc vận động văn hóa cơ bản: dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa, đồng thời khẳng định văn hóa là một mặt trận và người làm văn hóa là chiến sĩ.

Ngày 28/8/1945, trong bối cảnh cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra tuyên cáo thành lập Bộ Thông tin, Tuyên truyền trong nội các quốc gia. Cơ quan này sau đó được đổi tên thành Bộ Tuyên truyền và Cổ động vào ngày 1/1/1946, đánh dấu sự ra đời chính thức của tiền thân Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày nay. Từ đó, ngày 28/8 hằng năm đã trở thành Ngày truyền thống thiêng liêng của ngành.

Tám Thập Kỷ Xây Dựng Và Phát Triển Ngành Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Việt Nam
Bút tích chép tay câu chuyện về bài hát “Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao. (Ảnh tư liệu)

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, văn hóa Việt Nam đã thực sự trở thành một vũ khí tinh thần sắc bén. Những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” đã biết cách tổ chức công tác tuyên truyền thành một nghệ thuật, đồng thời đưa nghệ thuật vào công tác tuyên truyền. Các loại hình văn nghệ như ca khúc cách mạng, thơ ca, kịch nói đã ra đời mạnh mẽ, cổ vũ tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu của quân và dân ta. Những tác phẩm bất hủ như “Tiến quân ca” của Văn Cao, “Diệt phát xít” của Nguyễn Đình Thi đã trở thành biểu tượng cho khí thế cách mạng hào hùng của dân tộc.

Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc dần được định hình với sự phát triển của các thiết chế văn hóa như thư viện, bảo tàng, rạp chiếu bóng, nhà hát phục vụ nhân dân và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, văn hóa tiếp tục giữ vai trò nền tảng tinh thần của dân tộc, đi đầu trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, thúc đẩy tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Toàn ngành đã tập trung phát triển đời sống văn hóa cơ sở, mở rộng phong trào văn hóa quần chúng, xây dựng thiết chế văn hóa từ trung ương đến địa phương.

Một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển văn hóa Việt Nam diễn ra vào năm 1986 khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Văn hóa Việt Nam tiếp tục giữ vai trò đặc biệt quan trọng, luôn tiên phong đi trước mở đường, định hướng dư luận cho các cải cách táo bạo về kinh tế, xã hội.

Ngày 31/7/2007 đánh dấu một bước ngoặt lớn của ngành khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được thành lập chính thức, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên cơ sở sáp nhập Tổng cục Du lịch, Ủy ban Thể dục thể thao và tiếp nhận phần quản lý nhà nước về gia đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em. Đặc biệt, từ ngày 1/3/2025, Bộ đã tiếp nhận thêm chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, truyền thông từ Bộ Thông tin và Truyền thông, tạo nên một cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh và đồng bộ.

Đạt được nhiều thành tựu quan trọng

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã bám sát triển khai đồng bộ, có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Với tinh thần “3 Quyết tâm, 4 Chủ động, 5 Hiệu quả”, ngành đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trở thành điểm sáng trong bức tranh kinh tế đất nước.

Nhiệm kỳ 2021 – 2026, toàn ngành đã quyết liệt thay đổi tư duy từ “làm văn hóa sang quản lý nhà nước về văn hóa” thông qua công cụ pháp luật. Bộ đã chủ động rà soát, nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện thể chế, chính sách, xử lý nhiều “điểm nghẽn, khoảng trống về mặt pháp lý”, thúc đẩy phát triển theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển.

Tám Thập Kỷ Xây Dựng Và Phát Triển Ngành Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Việt Nam
Mùa thu mới mang theo niềm tin, hy vọng và khát vọng vươn lên, thôi thúc những người làm công tác văn hóa trên cả nước tiếp tục sáng tạo, đổi mới và cống hiến không ngừng.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ trì xây dựng và ban hành 124 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có 5 Luật, 31 Nghị định của Chính phủ, 1 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 88 Thông tư, Thông tư liên tịch. Tính đến nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực do Bộ quản lý đã tương đối hoàn chỉnh với 435 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có 15 Luật, 75 Nghị định, 43 văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ và 302 Thông tư, Thông tư liên tịch của Bộ trưởng.

Đặc biệt, Bộ đã thực hiện rà soát 2.439 văn bản quy phạm pháp luật, theo đó đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hoặc xử lý hiệu lực 199 văn bản quy phạm pháp luật. Đây là minh chứng cho tầm nhìn chiến lược, giúp văn hóa Việt Nam hội tụ bản sắc và tỏa sáng trong thời đại mới.

Công tác văn hóa, gia đình đạt nhiều thành tựu vượt bậc, đặc biệt là kết quả triển khai xây dựng môi trường văn hóa trên mọi địa bàn, mọi lĩnh vực. Nhiều mô hình xây dựng môi trường văn hóa gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã hình thành hệ sinh thái văn hóa thống nhất trong đa dạng.

Trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, Bộ đã đề nghị UNESCO công nhận 1 Di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long – Quần đảo Cát Bà, nâng tổng số di sản thế giới của Việt Nam lên 8 di sản. Hiện đã có 1 di sản tư liệu thế giới và 3 di sản tư liệu được ghi danh là di sản tư liệu Khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Tính đến tháng 5/2025, đã có khoảng gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể của 63 tỉnh, thành phố được kiểm kê. Bộ đã quyết định đưa 271 di sản văn hóa phi vật thể vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia trong tổng số 635 di sản. Hệ thống bảo tàng Việt Nam hiện có 204 bảo tàng, trong đó 127 bảo tàng công lập và 78 bảo tàng ngoài công lập, đang lưu giữ và phát huy giá trị trên 4 triệu hiện vật…

Báo chí, truyền thông, xuất bản tiếp tục thực hiện tốt chức năng là diễn đàn, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc sắp xếp các cơ quan báo chí theo quy hoạch đã cơ bản hoàn thành. Năm 2019, cả nước có 195 báo, hiện nay còn 137 báo, giảm 58 cơ quan. Có 38 cơ quan báo chuyển thành tạp chí và 48 cơ quan tạp chí chấm dứt hoạt động.

Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4 và Giải thưởng Sách Quốc gia đã trở thành sự kiện văn hóa tiêu biểu tạo động lực phát triển xuất bản và văn hóa đọc cả nước…

Nhìn về phía trước, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới với những định hướng rõ ràng, mục tiêu cụ thể và quyết tâm cao. Với nền tảng vững chắc đã được xây dựng qua 80 năm, cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quản lý hiệu quả của Nhà nước và sự đồng tâm, đồng lòng của toàn thể nhân dân, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục viết nên những trang sử vàng mới, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Để lại một bình luận