1. Tên gọi Sài Gòn có từ khi nào?

  • Thế kỷ 16

    0%

  • Thế kỷ 17

    0%

  • Thế kỷ 18

    0%

    Chính xác

    Theo Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Hội đồng Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh), từ cuối thế kỷ XVI, lưu dân Việt Nam đã bắt đầu vào Nam bằng thuyền. Ngoài ra, một bộ phận khác còn di chuyển lên vùng kinh đô của nước Chân Lạp hoặc sang kinh đô Ayuthia của nước Xiêm, lập làng xóm sinh sống.

    Khi người Việt đến vùng đất Sài Gòn, do chưa phân biệt rõ sắc tộc, nên họ được gọi chung là người “Man”. Với kinh nghiệm trồng lúa nước lâu đời, người Việt đã sớm hình thành sự phân công lao động hòa hợp trong khai khẩn: Người Việt đảm nhận ruộng sâu nhiều cỏ, gọi là thảo điền. Người dân tộc địa phương canh tác ruộng cao trên gò, giồng, gọi là sơn điền.

    Từ cuối thế kỷ XVI đến gần hết thế kỷ XVII, lưu dân Việt Nam đã khai phá, chinh phục thiên nhiên, làm chủ đất đai bằng búa phá rừng, phảng chém cỏ và lưỡi cày với đôi trâu. Họ gắn bó sâu sắc với ruộng đồng, vườn tược, xem đó là nền tảng sinh tồn.

    Có thể nói, lưu dân Việt Nam đã đến khẩn hoang, lập ấp trên địa bàn Sài Gòn từ rất lâu trước năm 1674. Khi ấy, Sài Gòn có lẽ đã trở thành một thị trấn tương đối quan trọng, trong đó việc cai quản chủ yếu do lưu dân tự đảm trách.

    2. Vị tướng nào khai sinh ra Sài Gòn?

    • Trần Quang Khải

      0%

    • Nguyễn Hữu Cảnh

      0%

    • Nguyễn Phúc Chu

      0%

      Chính xác

      Mùa xuân, tháng Hai năm Mậu Dần (1698), Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, khi đó là Trấn thủ dinh Bình Khang, vâng lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu đem quân vào Nam. Đây là lần đầu tiên ông đến vùng Đồng Nai – Gia Định.

      Tại đây, Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành khảo sát địa lý, thiên nhiên và đời sống cư dân, sau đó phân định ranh giới, thiết lập các đơn vị hành chính, bổ nhiệm nhân sự, quy định các vị trí đặt đồn tuần và cửa trấn để quản lý, bảo vệ vùng đất mới.

      Theo hệ thống tổ chức hành chính của các vùng đất cũ, ông đặt phủ Gia Định gồm hai huyện là Phước Long và Tân Bình, lấy sông Đồng Nai và sông Sài Gòn làm ranh giới tự nhiên giữa hai huyện.

      Huyện Phước Long (nay thuộc địa bàn các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương và một phần Thành phố Hồ Chí Minh – khu vực Thành phố Thủ Đức) đặt dinh Trấn Biên (sau là tỉnh Biên Hòa).

      Huyện Tân Bình (nay gồm Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Tây Ninh, phần lớn tỉnh Long An và một phần tỉnh Tiền Giang – khu vực Gò Công) đặt dinh Phiên Trấn (sau là tỉnh Gia Định).

      Mỗi huyện được chia thành bốn tổng:

      Huyện Phước Long gồm các tổng Phước Chánh, Bình An, Long Thành và Phước An.

      Huyện Tân Bình gồm các tổng Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc và Thuận Cách (đến triều Gia Long đổi thành Thuận An).

      Sau khi thiết lập nền hành chính phủ Gia Định, Chúa Nguyễn ban lệnh cho các địa phương từ Nam Bố Chính trở vào Nam vận động, chiêu mộ những người nghèo khổ, lưu tán vào đây lập nghiệp, khai khẩn đất hoang.

      Nhờ chính sách mềm dẻo, nhân hậu của Chúa Nguyễn, dân cư phủ Gia Định ngày một đông, đời sống ngày càng ổn định, mở đầu cho tiến trình khai phá và phát triển vùng đất Nam Bộ sau này.

      3. Sắc lệnh thành lập Thành phố Sài Gòn do vị người Pháp nào ký?













      Detail?Id=2453920&W=000003