Từ kỷ nguyên độc lập đến kỷ nguyên vươn mình

Thầy và trò Thủ đô hân hoan chào mừng Đại lễ 80 năm Quốc khánh 2/9 Phát huy hào khí tháng Tám: Xây dựng Thủ đô Hà Nội xứng tầm khu vực

30 năm chặng đường cách mạng kiên cường và vĩ đại

Ngay sau ngày độc lập, Việt Nam lập tức phải đối mặt với những thử thách sinh tử. Bên ngoài, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Bên trong, các thế lực phản động, tay sai lăm le lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ. Đất nước còn nghèo đói, chưa kịp ổn định sau hàng chục năm bị áp bức, bóc lột. Tuy nhiên, chính trong khói lửa ấy, tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc đã được hun đúc và tỏa sáng mãnh liệt.

Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện kéo dài 9 năm (1946 – 1954) đã kết tinh những giá trị vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Với đường lối kháng chiến đúng đắn, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, kết hợp đấu tranh vũ trang với ngoại giao, chúng ta đã giành được thắng lợi lịch sử tại Chiến thắng Điện Biên Phủ – một “cú đấm thép” giáng vào chủ nghĩa thực dân cũ, làm chấn động toàn cầu (7/5/1954). Thắng lợi đó không chỉ buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève, công nhận chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, mà còn khơi nguồn cảm hứng cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc khắp các châu lục.

Sau Hiệp định Genève, đất nước bị chia cắt. Miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam tiếp tục đấu tranh dưới sự đàn áp khốc liệt của chính quyền tay sai và đế quốc Mỹ.

Từ Kỷ Nguyên Độc Lập Đến Kỷ Nguyên Vươn Mình
Đại hội lần thứ VI năm 1986 của Đảng mở ra vận hội mới cho dân tộc Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước thực hiện khẩu hiệu “vừa sản xuất, vừa đấu tranh”, chi viện cho miền Nam ruột thịt. Biết bao thế hệ đã lên đường ra trận, xẻ dọc Trường Sơn, vượt bom đạn, hy sinh tuổi trẻ cho lý tưởng thống nhất đất nước. Đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại đã đi vào lịch sử nhân loại như một biểu tượng sáng chói của sức mạnh dân tộc kết hợp với chủ nghĩa quốc tế cao cả. Thắng lợi 30/4/1975 không chỉ đưa non sông thu về một mối, mà còn khẳng định chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Hơn 30 năm đấu tranh kiên cường, với biết bao mất mát, hy sinh, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được quyền làm chủ vận mệnh đất nước và dân tộc. Đó là thành quả thiêng liêng, là hành trang tinh thần vô giá để bước tiếp trên con đường phát triển hôm nay và mai sau.

Bước ngoặt đổi mới đưa đất nước thoát nghèo

Sau chiến tranh, Việt Nam phải gánh trên vai hậu quả nặng nề: kinh tế kiệt quệ, cơ sở hạ tầng đổ nát, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Trong khi đó, tình hình quốc tế phức tạp, đất nước bị bao vây cấm vận về kinh tế, bị cô lập về ngoại giao. Nhiều người từng gọi đó là “những năm tháng đói khổ nhất sau chiến tranh”. Tuy nhiên, cũng chính trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa thể hiện bản lĩnh đổi mới, tư duy đột phá, đặt lợi ích của dân tộc, của nhân dân lên trên hết.

Năm 1986, Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đứng trước nguy cơ tụt hậu, khủng hoảng kinh tế – xã hội. Với tinh thần “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật”, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, tập trung vào ba khâu đột phá: cải cách kinh tế, mở cửa hội nhập và đổi mới tư duy lãnh đạo.

Sự kiện này không chỉ đánh dấu một bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ về khát vọng vươn lên của một dân tộc. Đại hội VI được xem như “cuộc cách mạng thứ hai” không bằng gươm súng mà bằng trí tuệ, bằng tư duy chính trị đổi mới vì dân, vì nước.

Bốn thập kỷ kể từ Đại hội VI, Việt Nam đã trải qua một hành trình chuyển mình mạnh mẽ và ấn tượng, tăng trưởng kinh tế ổn định, đời sống nhân dân cải thiện. GDP tăng trưởng bình quân 6 – 7%/năm trong nhiều năm liền.

Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, năm 2008 Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, và tiếp tục phấn đấu trở thành nước phát triển vào năm 2045. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh (từ hơn 60% năm 1990 xuống dưới 3% năm 2023). Hệ thống hạ tầng, giao thông, y tế, giáo dục… ngày càng được đầu tư đồng bộ và hiện đại.

Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế chính trị ngày càng nâng cao. Là thành viên của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực, ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có những FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP. Được bầu vào nhiều vị trí quan trọng tại Liên Hợp Quốc, APEC, ASEAN… Việt Nam là bạn, là đối tác toàn diện; đối tác chiến lược toàn diện với hầu hết các quốc gia phát triển nhất thế giới.

Là điểm đến hấp dẫn cho hàng nghìn doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trên trường quốc tế với vai trò là một quốc gia ổn định, hòa bình, thân thiện, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Xây dựng nền chính trị ổn định, bộ máy hành chính tinh gọn. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giản biên chế, thực hiện mô hình chính quyền đô thị 2 cấp tại một số thành phố lớn.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Phòng, chống tham nhũng được xác định là cuộc đấu tranh “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Bước vào kỷ nguyên mới: Tư thế – Tầm nhìn – Tâm thế mới

Hơn bao giờ hết, Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn bước ngoặt mang tính thời đại. Đó không chỉ là sự chuyển giao của các thế hệ, mà còn là quá trình chuyển hóa toàn diện từ một đất nước đang phát triển, từng bước vươn lên tầm cao mới, trở thành quốc gia có năng lực cạnh tranh toàn cầu, có bản sắc văn hóa sâu sắc và có đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định khu vực và thế giới.

Từ Kỷ Nguyên Độc Lập Đến Kỷ Nguyên Vươn Mình
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước vững tin vào kỷ nguyên mới. (Trong ảnh: Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị lần thứ mười hai)

Năm 2045 – kỷ niệm 100 năm thành lập nước đã được xác định là cột mốc lịch sử quan trọng để Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, một quốc gia “hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc”. Đây không chỉ là khẩu hiệu, mà là một khát vọng chính trị rõ ràng, có tầm nhìn dài hạn, được hoạch định bằng các chiến lược cụ thể, khoa học, nhất quán và dựa trên thực tiễn.

Trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến động nhanh, phức tạp và khó lường, từ cạnh tranh địa – chính trị, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, xung đột thương mại đến những thay đổi trong trật tự quốc tế – Việt Nam càng cần thể hiện bản lĩnh vững vàng, chủ động thích ứng và khẳng định tư thế quốc gia.

Không thể đi nhanh trên một chiếc xe cũ kỹ. Để tiến vào thời đại mới, Việt Nam đang chủ động “sắp xếp lại giang sơn” theo tư duy chiến lược và khoa học:

Phát triển vùng động lực: Bắc Bộ với trung tâm là Hà Nội – vùng kinh tế tri thức, công nghệ và dịch vụ; Đông Bắc (Quảng Ninh) – cửa ngõ thương mại biển và du lịch; miền Trung với Đà Nẵng, Khánh Hòa, những cực tăng trưởng mới; miền Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng bằng sông Cửu Long, trung tâm công nghiệp, logistics, nông nghiệp hiện đại. Tập trung nguồn lực để kết nối hạ tầng liên vùng, hình thành các hành lang phát triển kinh tế, vùng đô thị thông minh, nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.

Một trong những đột phá chiến lược hiện nay là chuyển đổi số toàn diện, không chỉ trong quản lý nhà nước, sản xuất, dịch vụ, mà còn trong giáo dục, y tế, văn hoá và đời sống nhân dân. Cùng với đó là đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững: từ khai thác tài nguyên sang khai thác chất xám, trí tuệ; từ sản xuất gia công sang công nghiệp sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh.

Đầu tư mạnh vào khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hướng đến một xã hội tri thức, công bằng và hiện đại. Chính chuyển đổi số và khoa học công nghệ sẽ là “đòn bẩy” giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển và định hình vị trí xứng đáng trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Dân tộc Việt Nam đã đi qua chiến tranh để có độc lập, đã đổi mới để có phát triển. Nhưng để trở nên “hùng cường”, chúng ta cần nhiều hơn lòng tự hào, đó là tinh thần dấn thân, đổi mới và khát vọng vươn xa trong mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay.Tư thế mới là tư thế của một dân tộc không còn tự ti, không còn khép mình mà tự tin bước ra thế giới, hợp tác bình đẳng, hội nhập sâu rộng.

Tầm nhìn mới là tầm nhìn vượt lên khỏi khuôn khổ phát triển ngắn hạn, nhắm đến mục tiêu dài hạn, bao trùm và bền vững. Tâm thế mới là tinh thần đổi mới, sáng tạo, kỷ luật, có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng và Tổ quốc.

Việt Nam hôm nay, sau 80 năm độc lập, 40 năm đổi mới đang đứng trước một ngưỡng cửa lịch sử quan trọng. Cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đang cùng nhau hướng tới một tương lai tươi sáng, nơi giấc mơ hùng cường không còn là khái niệm xa xôi mà là một mục tiêu có thể chạm tới bằng trí tuệ, niềm tin và hành động kiên định.

“Nước Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dành cho thiếu nhi năm xưa mà cũng là lời gửi gắm cho cả dân tộc hôm nay. Muốn vươn ra biển lớn, đất nước cần mỗi người dân trở thành một chiến sĩ trên mặt trận mới – mặt trận tri thức, sáng tạo, hội nhập và nhân văn.

Từ ngày khai sinh nền độc lập nước nhà 2/9/1945 dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn 80 năm lịch sử hào hùng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ cuộc kháng chiến kiên cường chống thực dân và đế quốc, đến những bước tiến vượt bậc sau công cuộc Đổi mới, đất nước đã vươn mình mạnh mẽ từ một quốc gia nghèo đói, bị bao vây cấm vận trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với tư thế, tầm nhìn và tâm thế của một quốc năng động, quyết tâm xây dựng đất nước hùng cường như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

L.T.Hà

Để lại một bình luận